Quy định của pháp luật
Trong quá trình thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, người chấp hành án có thể phải thực hiện một số nghĩa vụ kèm theo như bị khấu trừ thu nhập cá nhân, thực hiện nghĩa vụ theo Luật thi hành án hình sự, ngoài ra, người bị kết án còn có thể bị buộc thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng. Khoản 4 Điều 36 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định: “…4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng”.
Về bản chất, biện pháp buộc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ là một dạng nghĩa vụ thi hành án mà người bị kết án có thể bị áp dụng và phải thực hiện trong quá trình chấp hành án, khi phát sinh những căn cứ luật định, do cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng, nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Đây là quy định mới, chưa từng có tiền lệ áp dụng ở nước ta, nhằm bổ sung các chế tài bảo đảm thi hành hiệu quả hình phạt cải tạo không giam giữ. Do đó, quá trình triển khai thực hiện gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định. Nghiên cứu quy định về buộc lao động phục vụ cộng đồng tại khoản 4 Điều 36 BLHS năm 2015, chúng tôi thấy có một số nội dung cần thống nhất nhận thức trong quá trình áp dụng.
- Căn cứ áp dụng: Điều 36 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 không quy định cụ thể về căn cứ áp dụng đối với biện pháp này. Trong thực tiễn áp dụng hiện có các ý kiến chưa thống nhất. Cụ thể:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, mọi trường hợp người bị kết án cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt đều có thể bị áp dụng biện pháp này.
Ý kiến thứ hai, cũng là ý kiến của tác giả cho rằng, chỉ áp dụng biện pháp này đối với những trường hợp Hội đồng xét xử tuyên khấu trừ thu nhập cá nhân. Vì khấu trừ thu nhập cá nhân gắn liền với hoàn cảnh việc làm của người bị kết án. Bởi lẽ, nếu người bị kết án cải tạo không giam giữ nhưng không bị khấu trừ thu nhập cá nhân thì việc có hay không có việc làm không ảnh hưởng đến nghĩa vụ thi hành án của họ. Điều kiện để áp dụng và thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ cũng không bắt buộc người bị kết án phải có việc làm. Chỉ khi người bị kết án bị khấu trừ thu nhập cá nhân bị mất việc làm, lúc này thực tế họ không có thu nhập nữa, do đó, biện pháp khấu trừ thu nhập cá nhân không thực hiện được, tức là tình trạng này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thi hành án. Như vậy, quy định này được xem như là một biện pháp “thay thế” cho biện pháp khấu trừ thu nhập cá nhân khi xét thấy không có khả năng thi hành trên thực tế và vẫn bảo đảm phát huy hiệu quả tối đa của hình phạt cũng như sự linh hoạt trong quá trình thi hành án.
- Điều kiện áp dụng: Dựa trên quy định tại Điều 36 BLHS năm 2015, để áp dụng biện pháp buộc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ, cần có điều kiện sau:
Người bị buộc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ phải là người bị Tòa án áp dụng biện pháp khấu trừ thu nhập cá nhân. Mặt khác, theo tác giả, cần lưu ý là không nên áp dụng biện pháp này, dù “người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm” trong trường hợp họ vẫn có tài sản và có nguyện vọng dùng tài sản đó để thực hiện nghĩa vụ khấu trừ thu nhập đã được ấn định trong bản án. Như trên đã phân tích, áp dụng biện pháp này là để bảo đảm hiệu quả thay thế, tuy nhiên khi biện pháp khấu trừ thu nhập vẫn khả thi và đang được thực hiện trên thực tế thì không cần thay thế bằng biện pháp khác.
Bên cạnh đó, cần lưu ý những trường hợp không được áp dụng biện pháp buộc thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ, cụ thể: “Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng” (khoản 4 Điều 36 BLHS năm 2015). Nghĩa là đối với những nhóm người này, dù họ “không có việc làm hoặc bị mất việc làm” thì vẫn không thể buộc thực hiện công việc lao động tại cộng đồng. Mặt khác, dù luật không quy định trực tiếp nhưng tại khoản 3 Điều 36 BLHS quy định “không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự”, khoản 2 Điều 100 BLHS năm 2015 quy định “khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó”. Vì vậy, trong những trường hợp này cũng không được áp dụng biện pháp buộc lao động phục vụ cộng đồng.
- Thẩm quyền áp dụng: Bộ luật Hình sự hiện hành không quy định cụ thể cơ quan nào có thẩm quyền áp dụng, tuy nhiên, tại khoản 5 Điều 101 Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải xem xét, quyết định buộc người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng.
Báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã, quyết định của cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải nêu rõ loại công việc, thời gian lao động phục vụ cộng đồng dự kiến buộc người chấp hành án phải thực hiện.
Căn cứ quyết định buộc người chấp hành án phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng, Ủy ban nhân dân cấp xã giao cho người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng dưới sự giám sát của Công an cấp xã”.
Như vậy, cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng là cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện trên cơ sở báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã. Hình thức áp dụng thể hiện bằng quyết định, trong đó nêu rõ loại công việc, thời gian lao động.
- Thủ tục, trình tự áp dụng: Theo quy định tại Điều 98, Điều 101 Luật thi hành án hình sự năm 2019 thì cơ quan Thi hành án hình sự có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng. Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành và Công an cấp xã có trách nhiệm giám sát việc thi hành của người bị kết án. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, chỉ khi không thể khấu trừ thu nhập cá nhân của người bị kết án thì mới tiến hành áp dụng biện pháp này mà khấu trừ thu nhập cá nhân thì do cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức thi hành. Do đó, ngoài trình tự áp dụng quy định tại Điều 101 Luật thi hành án hình sự năm 2019, theo tác giả bắt buộc phải có đề nghị bằng văn bản của cơ quan Thi hành án dân sự.
Như vậy, để áp dụng biện pháp này, cơ quan có thẩm quyền cần phải tiến hành chặt chẽ bằng việc xác minh nghề nghiệp, thu nhập của người bị kết án, biên bản về việc người bị kết án không chấp hành hoặc không có thu nhập để khấu trừ, báo cáo của cơ quan Thi hành án dân sự về việc không thể khấu trừ thu nhập cá nhân do người bị kết án không có việc làm hoặc bị mất việc làm, đề xuất của người được giao giám sát, giáo dục người bị kết án…
Việc áp dụng phải thể hiện bằng quyết định của cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện, theo quy định tại Điều 36 BLHS năm 2015, Điều 101 Luật thi hành án hình sự năm 2019. Trong quyết định phải nêu rõ lý do, hình thức và thời gian thực hiện lao động phục vụ cộng đồng, người có trách nhiệm giám sát và hậu quả pháp lý nếu người bị kết án không thực hiện công việc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Về việc ấn định thời gian lao động phục vụ cộng đồng
Khoản 4 Điều 36 BLHS năm 2015 quy định: “Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần”. Như vậy, mức thời gian ấn định không được quá thời gian nêu trên. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 và Luật thi hành án hình sự năm 2019 không quy định cụ thể thời gian lao động phục vụ cộng đồng mà chỉ giới hạn số giờ trong ngày và số ngày trong tuần. Có ý kiến cho rằng, thời gian lao động phục vụ cộng đồng tối đa không quá 05 ngày. Tác giả không đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ khoản 4 Điều 36 BLHS năm 2015 giới hạn thời gian tối đa trong 1 tuần, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà cơ quan Thi hành án hình sự ấn định thời gian lao động phục vụ cộng đồng cho người bị kết án. Cơ quan có thẩm quyền cần căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh gia đình, trình trạng sức khỏe… để ấn định thời gian và loại công việc phù hợp và thời gian áp dụng không được quá thời gian chung của hình phạt cải tạo không giam giữ, nghĩa là phải bảo đảm khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ thì thời gian lao động phục vụ cộng đồng cũng phải chấp hành xong.
- Xử lý đối với trường hợp không chấp hành quyết định buộc người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng
Buộc người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng không phải là nghĩa vụ tuyên trong bản án, cũng không phải là nghĩa vụ có từ khi tổ chức thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Nghĩa vụ này chỉ phát sinh trong quá trình thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ khi có những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, khi đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì quyết định buộc người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trở thành nghĩa vụ của người chấp hành án theo Điều 99 Luật thi hành án hình sự năm 2019 và bắt buộc phải thực hiện. Nếu người bị kết án không thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành xử lý theo quy trình xử lý vi phạm đối với người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ quy định tại Điều 105 Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Một số vướng mắc
- Về nội dung công việc lao động phục vụ cộng đồng: Do đây là quy định mới, chưa từng có tiền lệ áp dụng, chưa có văn bản pháp lý quy định cụ thể người bị buộc lao động phục vụ cộng đồng phải làm những công việc gì. Theo tác giả, công việc lao động phục vụ cộng đồng phải là những công việc chung, phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Nghiêm cấm việc buộc đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt này phải làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, quyền công dân của người bị kết án.
- Về xử lý quyết định khấu trừ thu nhập cá nhân đối với người bị kết án: Tác giả cho rằng, biện pháp thực hiện công việc lao động phục vụ cộng đồng là biện pháp thay thế. Do đó, khi cơ quan chức năng buộc họ thực hiện những công việc nhất định thì phải miễn khấu trừ thu nhập cá nhân cho người đó. Không thể đồng thời buộc lao động phục vụ cộng đồng, lại vừa khấu trừ thu nhập cá nhân đối với người bị kết án. Việc miễn khấu trừ thu nhập cá nhân phải thể hiện bằng quyết định. Quyết định này phải do Tòa án nơi ra quyết định thi hành án ban hành. Sau khi nhận được quyết định miễn khấu trừ thu nhập cá nhân của Tòa án cùng cấp, cơ quan Thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với phần khấu trừ thu nhập cán nhân được miễn.
- Về căn cứ nào để xác định một người là không có việc làm hoặc mất việc làm: Điều 36 BLHS năm 2015 cũng như Điều 101 Luật thi hành án hình sự năm 2019 không quy định cụ thể căn cứ xác định tình trạng không có việc làm hoặc bị mất việc làm. Theo chúng tôi, cần vận dụng hợp lý quy định về chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Điều 21 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ, trong đó xác định tình trạng “có việc làm” và từ đó, loại trừ và xác định tình trạng không có việc làm hoặc mất việc làm. Cụ thể:
“… Người lao động được xác định là có việc làm thuộc một trong các trường hợp sau:
- Đã giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc từ đủ 03 tháng trở lên. Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có hiệu lực theo quy định của pháp luật;
- Có quyết định tuyển dụng đối với những trường hợp không thuộc đối tượng giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Ngày có việc làm trong trường hợp này được xác định là ngày bắt đầu làm việc của người đó ghi trong quyết định tuyển dụng…”.
Đối với những người lao động tự do, việc làm không ổn định, không có hợp đồng lao động thì xác định tình trạng việc làm của họ phải dựa trên công việc và thu nhập thực tế. Việc xác định không có việc làm hoặc mất việc làm phải trên cơ sở xác minh trực tiếp đối với người trực tiếp sử dụng lao động, những người cùng làm việc và Ủy ban nhân dân cấp xã.
Một số kiến nghị, đề xuất
Từ quá trình áp dụng pháp luật cũng như phân tích, đánh giá như trên, chúng tôi đề nghị liên ngành tư pháp trung ương ban hành văn bản hướng dẫn, thống nhất quy định về buộc người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng quy định tại khoản 4 Điều 36 BLHS năm 2015 và Điều 101 Luật thi hành án hình sự một số nội dung sau:
Thứ nhất, để áp dụng biện pháp này, phải có đủ các điều kiện sau: (1) Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thuộc diện bị Hội đồng xét xử tuyên khấu trừ thu nhập cá nhân; (2) Người bị kết án không có việc làm hoặc mất việc làm trong thời gian chấp hành án; (3) Họ không có thu nhập, tài sản gì khác dẫn đến không thể khấu trừ thu nhập cá nhân; (4) Căn cứ để xác định một người là không có việc làm hoặc mất việc làm trên cơ sở vận dụng Điều 21 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ. Đối với những người lao động tự do, việc làm không ổn định, không có hợp đồng lao động thì phải trên cơ sở xác minh trực tiếp đối với người trực tiếp sử dụng lao động, những người cùng làm việc và Ủy ban nhân dân phường, xã.
Thứ hai, ngoài trình tự quy định tại Điều 101 Luật thi hành án hình sự năm 2019, cần phải có văn bản của Chi cục Thi hành án dân sự cùng cấp về việc người bị kết án cải tạo không giam giữ không có việc làm, bị mất việc làm trong thời gian chấp hành án và không thể khấu trừ thu nhập cá nhân, kèm theo là các tài liệu, biên bản xác minh của cơ quan Thi hành án dân sự và xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã. Ngoài ra, thời gian, nội dung buộc lao động phục vụ cộng đồng phải được thể hiện rõ trong nội dung quyết định nhưng không được vi phạm quy định về thời gian tại Điều 36 BLHS năm 2015 và không được quá thời gian cải tạo không giam giữ còn lại của người bị kết án. Nghiêm cấm việc buộc người bị kết án phải làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Khi nhận được quyết định buộc người bị kết án lao động phục vụ cộng đồng thì Tòa án cùng cấp quyết định miễn khấu trừ thu nhập cá nhân cho người bị kết án, cơ quan Thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với phần khấu trừ thu nhập cá nhân được miễn; không áp dụng biện pháp buộc lao động phục vụ cộng đồng đối với người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự, người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong quá trình tổ chức thi hành, nếu người bị kết án không thực hiện nghĩa vụ lao động phục vụ cộng đồng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì vận dụng Điều 105 Luật thi hành án hình sự năm 2019, Công an cấp xã lập biên bản về việc vi phạm. Trường hợp đã lập biên bản về việc vi phạm nghĩa vụ hai lần nhưng người chấp hành án vẫn tiếp tục vi phạm thì Công an cấp xã đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục tổ chức kiểm điểm người đó. Người chấp hành án đã bị kiểm điểm nhưng tiếp tục cố ý không thực hiện nghĩa vụ lao động phục vụ cộng đồng thì không được xem xét giảm thời hạn chấp hành án. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hoặc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự./.