Bất cập trong quy định

Thứ nhất, chưa có sự phân hóa giữa phạt tiền với tính chất là hình phạt chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt

Theo quy định của Điều 35 BLHS năm 2015 thì hình phạt tiền có thể là hình phạt chính nhưng cũng có thể chỉ là hình phạt bổ sung (đối với người phạm tội trong một số tội cụ thể mà BLHS quy định). BLHS chưa có sự phân biệt rõ giữa phạt tiền với tính chất là hình phạt chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt là chưa hợp lý. Bởi lẽ, về nguyên tắc hình phạt chính phải có mức độ nghiêm khắc hơn hình phạt bổ sung, nên việc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng cần phải nặng hơn, có tính răn đe hơn khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Có như vậy mới thực hiện triệt để nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong khi áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội.

BLHS hiện nay quy định mức phạt tiền giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung ở một số tội không có chênh lệch quá nhiều, không phản ánh được tính chất mức độ của hành vi phạm tội, chưa thể hiện tính răn đe của hình phạt. Ví dụ: Đối với tội “Đánh bạc” theo quy định Điều 321 BLHS năm 2015 thì mức thấp nhất của khung hình phạt khi áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền là 20.000.000 đồng, trong khi đó hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đã có mức khởi điểm là 10.000.000 đồng và tối đa là 50.000.000 đồng tức là hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung có mức phạt sẽ có trường hợp còn cao hơn cả hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính.

Thứ hai, về căn cứ quyết định mức phạt tiền

BLHS quy định khi quyết định hình phạt áp dụng hình phạt là hình phạt tiền thì Tòa án phải căn cứ vào điều kiện, khả năng tài chính của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình giải quyết vụ án cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, làm rõ các vấn đề liên quan trong vụ án hình sự trong đó các vấn đề về điều kiện, khả năng áp dụng hình phạt tiền cũng cần làm rõ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Tuy nhiên, việc chứng minh khả năng tài chính của người phạm tội chỉ mang tính chất tương đối và thường gặp nhiều khó khăn trong việc xác minh thu nhập cũng như tài sản riêng của họ. Việc xác minh điều kiện và khả năng tài chính của chủ thể bị áp dụng hình phạt tiền khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: Người phạm tội luôn có tâm lý che giấu thu nhập, tài sản của mình gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng; quy định của pháp luật còn nhiều vướng mắc, thiếu sự thống nhất trong quản lý được nguồn tài sản, các biến động về tài sản của công dân. Thực tế trong quá trình giải quyết vụ án việc xác minh về khả năng tài chính của người phạm tội chủ yếu dựa trên các nguồn như: lời khai của chính người phạm tội, các giấy tờ chứng minh được tài sản hợp pháp của họ, lời khai của những người thân thích trong gia đình họ, xác minh tại chính quyền địa phương, nơi làm việc để làm rõ nghề nghiệp và nguồn thu nhập hợp pháp từ họ... Những căn cứ này chỉ mang tính chất tương đối do không thể xác minh chính xác, đầy đủ.

Đối với những trường hợp người phạm tội không có nghề nghiệp ổn định, là lao động tự do… mức thu nhập của họ không thể xác định một cách cụ thể, dẫn đến việc thì khi tuyên mức phạt tiền đối với người phạm tội, Tòa án không thể đưa ra một mức phạt tiền phù hợp nhất với tình hình tài sản của người phạm tội. Nếu như mức phạt tiền cao so với tình hình tài sản của người phạm tội sẽ dẫn đến việc khó thi hành trên thực tế, ngược lại, trường hợp mức phạt tiền thấp không đảm bảo được tính nghiêm minh, răn đe của hình phạt.

Thứ ba, việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam khi áp dụng hình phạt chính là phạt tiền

Trong hệ thống các hình phạt chính mà BLHS quy định như tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ đều quy định việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành án. Riêng hình phạt chính là phạt tiền lại không quy định về việc khấu trừ này. Việc không khấu trừ này dẫn đến sự không công bằng cho người phạm tội. Ví dụ: Cùng một hành vi phạm tội có tính chất mức độ tương đương nhau nhưng có trường hợp bị tạm giam, tạm giữ dài ngày vì một lý do nào đó, nhưng đến khi xét xử lại cùng bị áp dụng hình phạt tiền như người đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác có tính chất nhẹ nhàng hơn ( như cấm đi khỏi nơi cứ trú, bảo lĩnh…) là chưa hợp lý, gây ra sự thiếu công bằng ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người phạm tội.

Thứ tư, mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một tội còn chưa hợp lý

Hiện nay tại một số điều luật trong phần các tội phạm còn quy định khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một khung hình phạt quá rộng. Điều này không đảm bảo nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, đồng thời có thể tạo cơ sở cho sự tùy tiện trong việc áp dụng hình phạt này. Ví dụ: “Tội sản xuất, buôn bán hàng cấp” tại khoản 1 Điều 190 BLHS năm 2015 có mức phạt tiền khi áp dụng là hình phạt chính tối thiểu là 100.000.000 đồng trong khi tối đa là 1.000.000.000 đồng (chênh lệch 900.000.000 đồng); “Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam” tại khoản 1 Điều 239 BLHS năm 2015 có mức phạt tiền khi áp dụng là hình phạt chính tối thiểu là 200.000.000 đồng trong khi tối đa là 1.000.000.000 đồng (chênh lệch 800.000.000 đồng)... Việc quy định khoảng cách quá xa về mức tối thiểu và tối đa của hình phạt tiền dẫn đến việc áp dụng  hình phạt này một cách tùy nghi, không thống nhất chủ yếu dựa vào quyết định chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng dễ phát sinh tiêu cực trong áp dụng hình phạt.

Thứ năm, chưa có quy định về việc chuyển đổi giữa hình phạt tiền với hình phạt khác nếu người phạm tội không chấp hành hình phạt tiền hoặc không có khả năng chấp hành hình phạt này.

Kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, cần có sự phân biệt rõ giữa phạt tiền với tính chất là hình phạt chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt. Về nguyên tắc, hình phạt chính phải có mức độ nghiêm khắc cao hơn hình phạt bổ sung, vì hình phạt bổ sung có vai trò củng cố hiệu lực của hình phạt chính và điều này cần được thể hiện thông qua mức phạt. Do vậy, cần phải sửa đổi Điều 35 BLHS năm 2015 theo hướng phải quy định mức tối thiểu của phạt tiền với tính chất là hình phạt chính phải cao hơn mức tối đa của phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung.

Thứ hai, về mức phạt tiền và căn cứ quyết định mức phạt tiền

Cần ban hành văn bản hướng dẫn để xác định tình hình tài sản của người phạm tội, đặc biệt đối với những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, lao động tự do để Tòa án làm cơ sở quyết định mức phạt tiền đối với người phạm tội được chính xác, phù hợp hơn, làm tăng tính khả thi cũng như hiệu quả của hình phạt tiền trên thực tế. Có thể quy định mức phạt tiền theo số đơn vị thu nhập ngày và có thể quy định “Tòa án có thẩm quyền xác định mức thu nhập bình quân/ngày của người bị kết án phạt tiền, trên cơ sở đó cứ một ngày tạm giữ, tạm giam sẽ được khấu trừ một khoản tiền tương ứng với một ngày công lao động của người đó. Trong trường hợp người bị kết án không có thu nhập hoặc có thu nhập không đáng kể hoặc thu nhập không ổn định thì việc xác định mức khấu trừ trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam theo ngày phải dựa vào mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định nhưng không được vượt quá số tiền phạt”.

Về mức phạt tiền: BLHS năm 2015 quy định mức phạt được tuyên theo một số tiền cụ thể, nên sửa đổi quy định phân hóa mức phạt tiền theo số đơn vị thu nhập ngày bởi những người có mức thu nhập khác nhau, họ sẽ có đánh giá khác nhau về mức phạt. Ví dụ: Đối với người có thu nhập bình quân 300.000 đồng/ngày thì họ thấy rằng mức phạt 30.000.000 đồng có thể là phù hợp, nhưng ngược lại vẫn là mức phạt 30.000.000 đồng ấy, đối với một người có thu nhập bình quân 3.000.000 đồng/ngày thì số tiền đó không phải lớn, họ chỉ cần bỏ ra 10 ngày làm việc là có thể có được.

Thứ ba, Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người phạm tội, việc khấu trừ thời gian tạm giam, tạm giữ đối với hình phạt tiền là cần thiết. Về vấn đề này cần có quy định cụ thể về cách khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam của người phạm tội, mức khấu trừ là bao nhiêu cũng cần tính toán kỹ lưỡng sao cho vừa phù hợp với quy định khác của pháp luật vừa đảm bảo tính công bằng.

Thứ tư, Cần thu hẹp khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một khung hình phạt. Như đã phân tích ở trên hiện nay tại một số điều luật trong phần các tội phạm của BLHS còn quy định khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một khung hình phạt quá rộng. Để đảm bảo nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đồng thời tránh sự tùy nghi trong việc áp dụng pháp luật nên quy định mức phạt tiền tối đa không quá bao nhiêu lần mức tối thiểu.

Thứ năm, bổ sung quy định về việc chuyển đổi giữa hình phạt tiền với hình phạt khác nếu người phạm tội không chấp hành hình phạt tiền.

Kiến nghị có thể bổ sung quy định theo hướng trong trường hợp người bị kết án không chấp hành hình phạt tiền hoặc không có khả năng chấp hành thì Tòa án có thể quyết định cho họ phải lao động công ích thay cho hình phạt tiền phạt tiền.

NGUYỄN HỮU ĐỨC (Tòa án quân sự Khu vực - Quân khu 1)

NGUỒN: TẠP CHÍ TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐIỆN TỬ