Hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã mang lại nhiều cơ hội cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị quốc gia và thực thi công lý trên thế giới. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển không ngừng của công nghệ số đã và đang làm thay đổi sâu sắc hoạt động của tòa án. Trong bối cảnh đó, tòa án Việt Nam chủ trương đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác tối đa các cơ hội mà cuộc cách mạng công nghệ mang lại để xây dựng tòa án điện tử - một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp trong tòa án nhân dân nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và xây dựng tòa án hiện đại như yêu cầu tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Ký kết Chương trình phối hợp giữa Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Thông tin và Truyền thông trong công tác chuyển đổi số và xây dựng tòa án điện tử - Ảnh: toaan.gov.vn

1. Nhận thức về tòa án điện tử

Bản chất của tòa án điện tử là chuyển một phần hoạt động của tòa án từ không gian thực lên không gian số, trong đó, cốt lõi là việc tiến hành, tối ưu và phát triển trên nền tảng số một số hoạt động: quản trị nội bộ tòa án; công khai hoạt động của tòa án; cung ứng cho người dân các dịch vụ tư pháp công; hỗ trợ các tiện ích nâng cao hiệu quả hoạt động của các chức danh tư pháp; kết nối và khai thác cơ sở dữ liệu của các nền tảng số quốc gia; đặc biệt là tiến hành các hoạt động tố tụng điện tử. 

Tòa án điện tử mang đến nhiều lợi ích to lớn cho tòa án, người dân và xã hội, cụ thể là:

Thứ nhất, giúp tăng năng suất lao động của tòa án. Nhiều hoạt động tố tụng đang được thực hiện theo phương thức truyền thống vốn tốn kém về thời gian và nhân lực, khi thực hiện thông qua nền tảng số sẽ được tự động hóa hoặc tiến hành trực tuyến (từ khâu thụ lý đơn khởi kiện, tiếp nhận hồ sơ vụ án cho đến kết thúc vụ án). Qua đó, vừa tăng năng suất lao động của tòa án, vừa tiết kiệm nhân lực và thời gian. Đây cũng chính là giải pháp để khắc phục một phần khó khăn, áp lực khi số lượng các vụ án gia tăng không ngừng nhưng phải giảm biên chế theo yêu cầu chung.

Thứ hai, hỗ trợ thẩm phán ra phán quyết chính xác. Thay vì phải lập hồ sơ vụ án, tra cứu văn bản pháp luật và tiến hành các tác nghiệp một cách thủ công, tòa án điện tử với ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) sẽ giúp thẩm phán và thư ký tòa án xử lý hồ sơ nhanh hơn, thuận tiện hơn trong việc tra cứu văn bản pháp luật và án lệ liên quan, tìm kiếm các vụ án có tình huống pháp lý tương tự. Thậm chí, công nghệ trí tuệ nhân tạo còn cho phép thiết lập “Trợ lý ảo” hỗ trợ đắc lực cho thẩm phán trong quá trình nghiên cứu để tham khảo và đưa ra phán quyết đúng pháp luật, nhanh chóng, chính xác.

Thứ ba, tiết kiệm công sức, thời gian và chi phí của người dân. Thay vì phải trực tiếp đến trụ sở tòa án trong giờ làm việc, tòa án điện tử tạo điều kiện cho người dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng ở mọi nơi, mọi thời điểm thông qua nền tảng số (nộp đơn khởi kiện, cung cấp chứng cứ trực tuyến...). Người dân còn có thể sử dụng các dịch vụ tra cứu các bản án, hỗ trợ phân tích và dự đoán kết quả tố tụng... từ đó quyết định khởi kiện hoặc không khởi kiện, tránh lãng phí thời gian, công sức và chi phí khi có các khiếu kiện, tranh chấp cần tòa án giải quyết.

Thứ tư, xử lý một cách nhân văn các tình huống đặc biệt của tố tụng. Tòa án điện tử tạo điều kiện cho các đương sự, nhân chứng, luật sư vì nhiều lý do khác nhau như dịch bệnh, bệnh tật, ở xa, khó khăn về kinh tế... không có điều kiện trực tiếp có mặt tại trụ sở tòa án vẫn có thể tham gia phiên tòa. Đặc biệt, với những vụ án xâm hại tình dục trẻ em, sẽ không triệu tập các em đến phòng xử án, toàn bộ việc khai báo của các em sẽ được tiến hành trực tuyến nhằm tránh phải tiếp xúc trực tiếp với bị cáo, bảo đảm bí mật đời tư, tránh cho trẻ em những tổn thương tiếp theo về tâm lý, nhân cách, danh dự.

Thứ năm, công khai, minh bạch hoạt động của tòa án. Công khai, minh bạch là một trong những thuộc tính của xét xử. Tòa án điện tử sẽ hỗ trợ đắc lực việc công khai, minh bạch toàn bộ hoạt động, tiến độ và kết quả xét xử, tạo điều kiện để người dân theo dõi, giám sát quá trình giải quyết vụ án của tòa án. Khẳng định uy tín của tòa án với nhân dân.

Thứ sáu, tăng năng lực quản lý và giám sát trong hệ thống tòa án. Tòa án điện tử sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý, chỉ đạo của tòa án nhân dân (TAND) tối cao với toàn hệ thống tòa án, của tòa án cấp trên với tòa án cấp dưới. Đặc biệt góp phần hữu hiệu tăng năng lực giám sát tiến độ thụ lý án trong nội bộ hệ thống tòa án, giúp tăng tính minh bạch, góp phần phòng ngừa tiêu cực. 

Thứ bảy, tiết kiệm cho ngân sách. Tòa án điện tử với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin (CNTT) sẽ giúp tiết kiệm đáng kể ngân sách. Theo tính toán của các chuyên gia, việc triển khai tòa án điện tử sẽ tiết kiệm từ 10% đến 15% chi phí hoạt động của tòa án. Việc tổ chức trực tuyến đến nhiều điểm cầu các hội nghị, hội thảo, tập huấn chuyên môn sẽ tạo điều kiện mở rộng thành phần tham dự tới thẩm phán, cán bộ tòa án toàn quốc để trao đổi nghiệp vụ, nâng cao trình độ mà không làm phát sinh chí phí đi lại, công tác phí, tiết kiệm thời gian...

2. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng tòa án điện tử

Xây dựng tòa án điện tử đã trở thành xu thế toàn cầu. Thực tiễn quốc tế cho thấy, nhiều nước chú trọng ứng dụng CNTT vào hoạt động tư pháp từ sớm và đã đạt được những thành tựu lớn trong xây dựng tòa án điện tử (như Mỹ, Ôxtrâylia, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinhgapo, Trung Quốc...). Từ cung cấp dịch vụ hành chính tư pháp trực tuyến, tống đạt điện tử, cung cấp và tiếp nhận chứng cứ trực tuyến đến xét xử trực tuyến... đều được các quốc gia này thực hiện một cách thường xuyên và đang dần thay thế hoạt động tố tụng truyền thống. 

Tòa án các nước đã triển khai nhiều phần mềm tố tụng điện tử với tính năng hiện đại để hỗ trợ người dân thực hiện các hoạt động tố tụng trên nền tảng số (từ khâu nộp đơn khởi kiện, cung cấp chứng cứ trực tuyến cho đến khi xét xử xong). Các phần mềm này cũng cho phép người dân giám sát tiến độ giải quyết án của tòa án, qua đó, tăng sự thuận lợi, niềm tin và hài lòng của người dân. Cùng với đó, tòa án các nước triển khai nhiều phần mềm tố tụng thông minh để hỗ trợ tối đa cho Thẩm phán trong quá trình nghiên cứu, xử lý vụ án (như: tự động lập hồ sơ vụ án; tìm kiếm, tra cứu các văn bản pháp luật; tự tạo các văn bản pháp lý; tống đạt các quyết định tố tụng; hỗ trợ xác minh thông tin; hỗ trợ viết bản án...). Ở những nước xây dựng được tòa án điện tử hiện đại đã giúp giảm khoảng 50% thời gian xử lý vụ án. Tòa án các nước cũng tận dụng tối đa thành tựu của CNTT vào phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; hàng loạt phần mềm quản lý đã được thiết lập và triển khai, qua đó giúp cho công tác quản lý trong toàn hệ thống tòa án được thông suốt, kịp thời và khoa học. Tính năng hiện đại của tòa án điện tử đã được các nước ứng dụng mạnh mẽ vào công tác quản lý nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho thẩm phán. Theo đó, toàn bộ thông tin của thẩm phán, cán bộ tòa án từ khi được tuyển dụng, bổ nhiệm, nâng ngạch và trong suốt quá trình công tác được lưu trữ, cập nhật thường xuyên để phục vụ công tác quản lý và đánh giá cán bộ. 

Rõ ràng, ứng dụng CNTT, xây dựng tòa án điện tử đã trở thành nhu cầu và xu thế không thể đảo ngược của tòa án tất cả các nước trên thế giới. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của tiến trình phát triển nền tư pháp ở mọi quốc gia trong bối cảnh hiện nay.

3. Định hướng xây dựng tòa án điện tử ở Việt Nam

- Xây dựng tòa án điện tử hướng tới thực thi và nâng cao năng lực quản trị tòa án trên nền tảng số 

Xây dựng tòa án điện tử để thực thi quản trị tòa án trên nền tảng số (hệ thống), qua đó nâng cao hiệu quả quản trị nội bộ tòa án. Ứng dụng công nghệ số, tòa án quản lý những lĩnh vực sau:

Thứ nhất, quản lý hoạt động tố tụng. Mọi hoạt động tố tụng từ khi tiếp nhận đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án, phân công giải quyết án cho đến khi giải quyết, xét xử xong sẽ được tự động cập nhật trên hệ thống. Hệ thống này không chỉ có tính năng lưu trữ, theo dõi, mà còn kịp thời đưa ra những cảnh báo, nhắc việc giúp thẩm phán và người quản lý tránh nguy cơ vi phạm, sai sót (thí dụ: chưa tống đạt văn bản tố tụng hoặc sắp hết thời hạn tố tụng, vi phạm thời hạn tố tụng...).

Thứ hai, quản lý nhân sự. Mọi thông tin về nhân sự từ khâu tuyển dụng, bổ nhiệm và trong suốt quá trình công tác sẽ được tự động cập nhật trên hệ thống. Xây dựng và ứng dụng các phần mềm giám sát, đánh giá thẩm phán (dựa trên bộ tiêu chí đánh giá chất lượng thẩm phán). Định kỳ 6 tháng hoặc hằng năm, nền tảng giám sát tự động này sẽ đánh giá thẩm phán và gửi thông báo đến lãnh đạo để phục vụ công tác quản lý, điều hành; đồng thời gửi đến từng thẩm phán để biết mình đang được xếp hạng ở mức nào, bị hạ điểm ở những tiêu chí nào và có phương án khắc phục.

Thứ ba, quản lý và lưu trữ hồ sơ. Toàn bộ hồ sơ gốc sẽ được quản lý và lưu trữ trên cơ sở dữ liệu lớn của nền tảng số, trước mắt ưu tiên số hóa hồ sơ tố tụng. Việc cập nhật thường xuyên hồ sơ lưu trữ trên nền tảng số sẽ giúp lưu giữ hồ sơ nguyên vẹn, lâu dài, tiết kiệm nhân lực, vật lực, đóng vai trò quyết định trong công tác quản lý, sử dụng, phân tích và dự báo sử dụng công nghệ AI.

Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. CNTT cho phép tổ chức trực tuyến các hội nghị, hội thảo, các khóa đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống tòa án, vừa giúp mở rộng thành phần tham dự, vừa tiết kiệm thời gian, chi phí. Khối lượng tri thức đồ sộ lưu trữ trong tòa án điện tử cũng là nguồn tư liệu quý giá cho việc tự đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý của cán bộ tòa án. Công tác đào tạo có thể được thực hiện trên nền tảng đào tạo số, bảo đảm các tiêu chí năng suất - chất lượng - hiệu quả trên quy mô toàn quốc cho toàn bộ cán bộ và sinh viên hệ thống tòa án.

Thứ năm, phục vụ công tác thống kê. Ứng dụng công nghệ số để phục vụ báo cáo định kỳ và đột xuất, phân tích và xử lý dữ liệu thống kê nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý. Quá trình chuyển đổi số sẽ hình thành các kho dữ liệu lớn của TAND, phục vụ cho việc tổng kết thực tiễn xét xử, phát hiện những lỗ hổng pháp lý, các vi phạm phổ biến, quy luật hoạt động của tội phạm, đánh giá hiệu quả công tác phòng chống vi phạm và tội phạm, vừa giúp tiết kiệm thời gian, nhân lực và đem lại hiệu quả rất lớn.

Thứ sáu, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính trong hệ thống tòa án, nhằm quản lý chặt chẽ, đúng quy định pháp luật, phát huy hiệu quả sử dụng, tránh lãng phí hoặc thất thoát.

- Xây dựng tòa án điện tử, cung cấp các dịch vụ tư pháp công để phục vụ người dân tốt hơn

Một trong những mục tiêu quan trọng của tòa án điện tử là hướng tới phục vụ người dân, cung ứng cho nhân dân các dịch vụ tư pháp công hiện đại, thuận lợi và tiết kiệm; đặc biệt là các loại dịch vụ công sau:

Thứ nhất, gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và thực hiện cấp, tống đạt, thông báo văn bản của tòa án thông qua phương tiện điện tử. Sau khi hoàn thành việc nộp hồ sơ, hệ thống sẽ cung cấp mã số tiếp nhận để người dân, doanh nghiệp dễ dàng theo dõi quá trình thụ lý, giải quyết của tòa án. Việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản của tòa án có thể thực hiện thông qua thiết bị điện tử cá nhân như điện thoại, máy tính... một cách nhanh chóng và tiện lợi.

Thứ hai, đăng ký trực tuyến cấp sao bản án và tài liệu trong hồ sơ vụ án. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, người dân không cần phải đến trụ sở tòa án mà có thể đăng ký đề nghị cấp sao bản án và tài liệu trong hồ sơ vụ án ở bất kỳ thời gian, địa điểm nào. 

Thứ ba, nộp án phí, lệ phí, tiền phạt trực tuyến. Thông qua hệ thống này, người tham gia tố tụng có thể nộp án phí, lệ phí, tiền phạt trực tuyến theo quy định của pháp luật hoặc quyết định trong các bản án mà không cần đến kho bạc nhà nước.

Thứ tư, tra cứu các thông tin về vụ án như thông báo thụ lý vụ án, vụ việc; quyết định phân công thẩm phán thụ lý; lịch mở phiên tòa, phiên họp; tiến trình tố tụng và các thông tin khác.

Thứ năm, cung cấp các bản án đã được xét xử để người dân tham khảo, phân tích các tình huống pháp lý tương tự từ đó đưa ra các quyết định tư pháp, đoán định tư pháp sáng suốt, đúng pháp luật. Trên cơ sở đó, thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân như quyền khởi kiện, kháng cáo, tố cáo... tham gia hữu hiệu vào hoạt động giám sát tư pháp.

Thứ sáu, cung ứng dịch vụ tư vấn pháp lý. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo để xây dựng “Nhà tư vấn ảo” giúp nhân dân tra cứu hệ thống pháp luật, giải đáp các câu hỏi về quy trình, thủ tục giải quyết án. Tiếp tục phát triển các dịch vụ công trực truyến khác của tòa án và triển khai mở rộng các kênh tương tác trực tuyến để người dân tham gia, giám sát hoạt động giải quyết, xét xử của tòa án và gửi ý kiến phản hồi cho tòa án.

- Xây dựng tòa án điện tử hỗ trợ thẩm phán nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động

Xây dựng tòa án điện tử ứng dụng mạnh mẽ CNTT, trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ thẩm phán giải quyết án chính xác và giảm bớt áp lực công việc. Xét cho cùng, chất lượng của tòa án do chính các thẩm phán quyết định, nên yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của thẩm phán là nhiệm vụ rất quan trọng. Hiện nay, TAND tối cao đã đưa vào sử dụng “trợ lý ảo” cung cấp các dịch vụ thông minh hỗ trợ thẩm phán. Trợ lý ảo đóng vai trò như một thư ký riêng, được lập trình am hiểu pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ của tòa án, làm việc 24/7 và luôn bên cạnh thẩm phán, giao tiếp với thẩm phán bằng ngôn ngữ nói hoặc chữ viết thông qua điện thoại di động, máy tính cá nhân nên nhanh chóng, tiện ích. Trợ lý ảo được kỳ vọng là điểm sáng của nền tư pháp trong thời đại 4.0 và là công cụ giúp việc đắc lực cho thẩm phán. Trợ lý ảo hỗ trợ thẩm phán thông qua các tính năng:

Thứ nhất, giới thiệu hệ thống pháp luật có liên quan để giải quyết vụ án. Theo đó, trợ lý ảo giới thiệu các luật, pháp lệnh, thông tư, nghị định... chính xác đến từng điều, khoản của văn bản pháp quy và thời điểm có hiệu lực của văn bản phù hợp với thời gian xảy ra vụ án.

Thứ hai, giới thiệu các tình huống pháp lý tương tự đã được hội đồng thẩm phán TAND tối cao tổng kết thực tiễn xét xử và đưa ra câu trả lời.

Thứ ba, giới thiệu các án lệ liên quan.

Thứ tư, giới thiệu các bản án tương tự đã có hiệu lực pháp luật. Các bản án được giới thiệu để tham khảo theo thứ tự ưu tiên: án giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, án giám đốc thẩm của 3 TAND cấp cao, các bản án khác.

Thứ năm, hỗ trợ lập kế hoạch giải quyết án, tạo lập và quản lý hồ sơ án điện tử, số hóa và sắp xếp hồ sơ theo từng loại tài liệu của vụ án để thuận tiện nghiên cứu; hỗ trợ quản lý công việc, đưa ra các cảnh báo, thông báo, nhắc việc.

Thứ sáu, tự động tạo các tài liệu pháp lý mẫu theo quy định của pháp luật tố tụng (như giấy triệu tập, quyết định tạm giam, quyết định đưa vụ án ra xét xử...), hỗ trợ viết một phần nội dung bản án, qua đó giúp giảm 30% khối lượng công việc so với thao tác truyền thống.

Thứ bảy, hỗ trợ phân tích dữ liệu, xác minh thông tin và phát hiện các sai sót trong các bản án, quyết định của tòa án. Hệ thống này phân tích sâu thông tin vụ án, tham chiếu chéo và kiểm tra các thông tin vụ án, hỗ trợ kiểm tra chứng cứ; phát hiện các yêu cầu tố tụng bị bỏ sót; phát hiện các lỗi trích dẫn điều luật; phân tích bản án và sửa lỗi kỹ thuật; phát hiện các lỗi về mặt logic trong văn bản mà bằng trực quan khó phát hiện được.

Thứ tám, ở giai đoạn phát triển tiếp theo, trợ lý ảo có khả năng phân tích, suy luận và đưa ra các gợi ý đoán định pháp luật tương đối chính xác, hỗ trợ thẩm phán ra quyết định nhanh chóng và thống nhất trên toàn quốc.

Thứ chín, mã hóa, đăng tải bản án, quyết định lên cổng thông tin điện tử của tòa án và nhiều tính năng khác.

- Xây dựng tòa án điện tử để triển khai các hoạt động tố tụng trực tuyến

Cốt lõi của việc xây dựng tòa án điện tử chính là chuyển đổi số các hoạt động tố tụng để hình thành một phương thức tố tụng mới trên nền tảng số. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, một số nước có nền tư pháp phát triển và công nghệ hiện đại đã ban hành đạo luật về tố tụng điện tử (Pháp, Đức, Mỹ...) và triển khai nhiều hoạt động tố tụng trên nền tảng số (từ khi thụ lý vụ án đến khi hoàn thành xét xử). 

Ở nước ta, các luật về tố tụng đã có một số quy định về tố tụng điện tử, tố tụng trực tuyến trong giai đoạn xét xử. Đặc biệt, tại Kỳ họp thứ hai vừa qua, trên cơ sở đề xuất của TAND tối cao, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết cho phép xét xử theo hình thức trực tuyến. Tuy vậy, chừng đó những quy định là chưa đủ và chưa khai thác hết tiềm năng của CNTT trong hoạt động tư pháp. Những hoạt động tố tụng có thể tiến hành trực tuyến là:

- Nộp đơn khởi kiện, cung cấp chứng cứ, khai báo trực tuyến.

- Nộp án phí, lệ phí, tiền phạt vi phạm trực tuyến.

- Tổ chức trực tuyến các phiên hòa giải trong vụ án dân sự và đối thoại trong vụ án hành chính.

- Xét xử trực tuyến sơ thẩm và phúc thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính.

- Tổ chức trực tuyến các phiên họp để giải quyết các việc dân sự (như các yêu cầu về công nhận cha mẹ cho con, hạn chế quyền của cha mẹ với con cái, chấm dứt việc nuôi con nuôi...).

- Sao chụp hồ sơ, tài liệu tố tụng và tống đạt, thông báo trực tuyến các văn bản tố tụng.

- Tiến hành trực tuyến các hoạt động tố tụng khác.

- Xây dựng tòa án điện tử góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của tòa án

Công khai là thuộc tính của hoạt động xét xử, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, là phương thức hữu hiệu để kiểm soát quyền lực, đồng thời là cơ chế đề cao trách nhiệm của thẩm phán trong thực thi quyền tư pháp. Với ý nghĩa như vậy, công khai trong hoạt động của tòa án là nguyên tắc căn cốt đã được quy định trong Hiến pháp. Theo đó, pháp luật quy định mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa; Thông tư của Chánh án TAND tối cao về phòng xử án còn có các quy định cụ thể tạo điều kiện cho cơ quan truyền thông tham dự và đưa tin về phiên tòa, đây là quy định không phải nước nào cũng có. Tòa án điện tử cho phép tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch của hoạt động tòa án. Trên nền tảng số, tòa án phải phấn đấu thực hiện tốt 7 nội dung công khai sau:

Thứ nhất, công khai hệ thống pháp luật, các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, các án lệ, các văn bản hướng dẫn, các giải đáp pháp luật. Qua đó, giúp người dân, các giảng viên, sinh viên luật, các nhà nghiên cứu... nhanh chóng và thuận lợi tra cứu, tìm kiếm văn bản. 

Thứ hai, công khai việc phân công cán bộ thụ lý án. Qua đó, vừa tạo cơ chế giám sát bên trong việc phân công án trong nội bộ hệ thống tòa án; vừa giúp các đương sự và những người tham gia tố tụng giám sát từ bên ngoài, đồng thời thuận tiện khi thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ (như đề nghị, kiến nghị, cung cấp bổ sung chứng cứ...).

Thứ ba, công khai tiến độ thụ lý và giải quyết án. Qua đó, tạo điều kiện để người dân và lãnh đạo tòa án giám sát, buộc mỗi thẩm phán nỗ lực để hoàn thành việc giải quyết án đúng thời hạn luật định.

Thứ tư, công khai quá trình xét xử tại phiên tòa (trừ những trường hợp pháp luật quy định cấm công khai), qua đó để người dân theo dõi và góp phần phổ biến, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật.

Thứ năm, công khai kết quả xét xử. Theo đó, công khai các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để người dân giám sát, tham khảo. Việc công khai bản án, quyết định của tòa án đã đề cao trách nhiệm của mỗi thẩm phán từ đó phải nâng cao chất lượng xét xử và chất lượng xây dựng bản án.

Thứ sáu, công khai quá trình và kết quả thi hành án. Qua đó, tạo điều kiện để người dân và xã hội giám sát quá trình thi hành án, bảo đảm công lý được thực thi đến cùng.

Thứ bảy, công khai quá trình và kết quả xét miễn, giảm án. Theo đó, toàn bộ quá trình và kết quả xét miễn, giảm án, tạm đình chỉ thi hành án, hoãn thi hành án, tha tù trước thời hạn có điều kiện đều được công khai trên nền tảng số để người dân giám sát.

- Xây dựng tòa án điện tử để kết nối với các nền tảng số khác

Xây dựng tòa án điện tử còn hướng đến kết nối với các nền tảng số của quốc gia và các bộ ngành khác như Cổng dịch vụ công quốc gia, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thống kê, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao... Việc kết nối giữa các nền tảng số cho phép tòa án khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ tốt hơn nhiệm vụ của mình, đồng thời chia sẻ, phát huy tối đa hữu ích cơ sở dữ liệu của TAND phục vụ cho tiến trình xây dựng xã hội số, kinh tế số, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành, quản trị quốc gia.

4. Một số nhiệm vụ cần triển khai thời gian tới

Để xây dựng thành công tòa án điện tử cần có nhận thức đúng, quyết tâm cao, giải pháp đồng bộ, nguồn lực cần thiết, điều hành quyết liệt. Trước mắt, phải thực hiện 05 nhiệm vụ chính sau đây:

- Xây dựng Chiến lược tổng thể về chuyển đổi số trong hệ thống tòa án 

Đảng, Nhà nước ta chủ trương tăng cường, phát triển khoa học công nghệ và xem đây là một động lực tăng trưởng quan trọng. Trong Chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số(1). Đây là cơ sở chính trị quan trọng để xây dựng tòa án điện tử. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, TAND tối cao Việt Nam cũng đã cam kết hoàn tất việc xây dựng và vận hành tòa án điện tử vào năm 2025. Vì vậy, TAND tối cao phải khẩn trương xây dựng và triển khai Chiến lược tổng thể về chuyển đổi số trong hệ thống tòa án đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

 Chiến lược phải đặt ra các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể, phải tạo ra nhận thức đầy đủ trong hệ thống tòa án về tầm quan trọng của chuyển đổi số và xây dựng tòa án điện tử. Đây vừa là xu thế tất yếu của dòng chảy số quốc gia, vừa là cơ hội để phát triển tòa án. Chiến lược này phải xác định rõ những định hướng chính để xây dựng tòa án điện tử và những nhiệm vụ cần tập trung triển khai trong thời gian tới; xác định lộ trình và bước đi phù hợp với từng giai đoạn, phù hợp với điều kiện kinh tế, trình độ công nghệ... Do công nghệ phát triển, thay đổi nhanh chóng hằng ngày, nên việc xây dựng Chiến lược tổng thể về chuyển đổi số phải có tầm nhìn dài hạn, linh hoạt thích ứng để đi tắt, đón đầu, vượt lên về công nghệ, tiết kiệm chi phí và thời gian.

- Hoàn thiện các quy định pháp luật

Vận hành tòa án điện tử phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ, thích ứng với công nghệ số. Hạ tầng pháp lý chính yếu của tòa án điện tử bao gồm: (1) Pháp luật về tố tụng điện tử; (2) Pháp luật về công nghệ thông tin, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo; (3) Pháp luật về tổ chức bộ máy của TAND và các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra còn những đạo luật liên quan khác.

Hệ thống pháp luật nêu trên được hoàn thiện theo hướng cho phép tiến hành các hoạt động tố tụng trực tuyến; quy định về chứng cứ điện tử; cơ sở khoa học và tính pháp lý của các phần mềm phục hồi chứng cứ điện tử; an ninh an toàn mạng; tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành tố tụng điện tử; vai trò, quyền tham gia tố tụng của các kỹ sư công nghệ thông tin...

- Phát triển hạ tầng số hiện đại

Hạ tầng CNTT, công nghệ số đóng vai trò quan trọng trong phát triển tòa án điện tử. TAND tối cao cần xây dựng đề án trang bị cơ sở vật chất cho tòa án điện tử. Nội dung chủ yếu của đề án nhằm trang bị: (1) Hạ tầng kỹ thuật số, bao gồm các thiết bị số đầu cuối, đường truyền tốc độ cao ổn định, trung tâm lưu trữ dữ liệu lớn và trung tâm điều hành; (2) Các nền tảng số vận hành tòa án và trợ lý ảo ứng dụng  trí tuệ nhân tạo tương ứng với từng nhiệm vụ hoạt động của tòa án; (3) Chương trình đào tạo cho quản lý, vận hành và ứng dụng tòa án điện tử.

Đây là một đề án cần đầu tư thỏa đáng về kinh phí nên (1) Cần phải có lộ trình thích hợp cho cả trước mắt, cả trung hạn và dài hạn, tùy thuộc vào tiềm năng của nền kinh tế và trình độ phát triển của công nghệ; (2) Huy động đa dạng các nguồn lực, từ ngân sách nhà nước, từ hợp tác quốc tế và cả từ xã hội hóa; (3) Đầu tư thiết bị công nghệ phải bảo đảm các yêu cầu: hiện đại, an ninh an toàn, tiện lợi và cân nhắc đi tắt đón đầu.

- Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin

Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của chuyển đổi số và xây dựng tòa án điện tử. Phát triển nguồn nhân lực để tòa án điện tử thực thi trong thực tiễn phải đồng bộ cả nhân lực quản lý, vận hành và ứng dụng công nghệ số. Theo đó, bao gồm: (1) Đội ngũ kỹ sư CNTT, công nghệ số; (2) Đội ngũ thẩm phán, các chức danh tư pháp và nhân viên tòa án các cấp; (3) Người dân khi có việc cần tòa án giải quyết.

Các kỹ sư CNTT phải vừa có kiến thức cập nhật về công nghệ số, vừa hiểu biết pháp luật và hoạt động của tòa án. Cần phải hình thành tổ chức bộ máy từ TAND tối cao đến các TAND cấp tỉnh để vận hành hệ thống công nghệ số. Chế độ đãi ngộ hiện tại đang là điểm nghẽn để thu hút nguồn nhân lực này. Tuy vậy, rất cần thiết phải đổi mới và có cơ chế phù hợp. Thẩm phán, cán bộ tòa án phải được đào tạo lại để nhận thức đầy đủ về tòa án điện tử và thay đổi thói quen làm việc từ môi trường truyền thống chuyển sang làm việc trên không gian mạng. Nền tảng số của tòa án điện tử phải trở thành nền tảng làm việc chung của toàn hệ thống gần 800 tòa án; cán bộ tòa án không vào nền tảng này sẽ không làm việc được. Chỉ có như vậy tòa án điện tử mới thực sự thành công.

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế

Đến nay, nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đã có những bước tiến dài trong xây dựng tòa án điện tử. Thời gian qua, tòa án Việt Nam đã tích cực triển khai nhiệm vụ xây dựng tòa án điện tử và đã đạt được một số kết quả bước đầu, song vẫn còn khiêm tốn. Hợp tác quốc tế là con đường ngắn nhất để xây dựng tòa án điện tử, cho phép tiếp cận ngay với các thành tựu tiên tiến của công nghệ số trên thế giới cũng như việc ứng dụng trong tòa án. Qua đó, không tốn kém về thời gian, công sức, kinh phí để tìm tòi, nghiên cứu, đồng thời khắc phục được những bất cập, hạn chế khi thực hiện. Hợp tác quốc tế còn tranh thủ được các nguồn lực tài chính cho xây dựng tòa án điện tử. Hợp tác với những nước đã xây dựng được tòa án điện tử hiện đại sẽ chia sẻ được kinh nghiệm, đồng thời tiến tới kết nối hạ tầng số để “thu hẹp khoảng cách số” giữa các nền tư pháp, sớm về đích nhiệm vụ xây dựng tòa án điện tử và chuyển đổi số trong hệ thống tòa án. 

Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số và hoàn thành việc xây dựng tòa án điện tử phải trở thành khát vọng của toàn hệ thống tòa án và của từng cán bộ, thẩm phán. Đây là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay cần cụ thể hóa để quyết liệt hoàn thành sớm. Đây là cơ hội để tòa án tiếp tục nâng cao niềm tin công lý của người dân, nâng cao hiệu quả hoạt động của tòa án và xây dựng tòa án hiện đại như yêu cầu tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Nhất định công cuộc chuyển đổi số và xây dựng tòa án điện tử sẽ tạo ra những giá trị lớn lao, đóng góp quan trọng vào thành công của sự nghiệp cải cách tư pháp nước nhà, bắt kịp với xu hướng của tư pháp tiến bộ trên thế giới.

_________________

(1) Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

PGS, TS NGUYỄN HÒA BÌNH

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,

Chánh án Tòa án nhân dân tối ca