Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam là sản phẩm hoạt động tự giác, là kết quả của quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam - Ảnh: dangcongsan.vn
Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị thường rêu rao luận điệu cho rằng: Việt Nam phát triển kinh tế nhiều thành phần tất yếu phải đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Những người này “viện dẫn” một cách máy móc, thậm chí xuyên tạc tư tưởng của các nhà kinh điển mácxít về quan hệ giữa kinh tế với chính trị để biện hộ cho ý đồ thâm độc, cho âm mưu đen tối của họ. Có thể phê phán tính chất ngụy biện, thiếu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị trong luận điệu này trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, những ai nghiên cứu lý luận Mác - Lênin một cách cơ bản, hệ thống đều không xa lạ với quan điểm của các nhà kinh điển mácxít về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế với chính trị. Quan hệ biện chứng ấy một mặt, khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế suy cho cùng quyết định chính trị; mặt khác, ý thức xã hội, ý thức chính trị cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội, tác động đến kinh tế. Trong những điều kiện, giới hạn nhất định, ý thức xã hội - nhất là ý thức chính trị - có thể làm thay đổi tồn tại xã hội, trước hết là thay đổi phương thức sản xuất, thay đổi cách tổ chức, cách thức quản lý kinh tế. C.Mác từng viết: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ... Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”(1). Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Những tư tưởng thống trị không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới hình thức tư tưởng”(2).
Như vậy, theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cơ sở kinh tế suy cho cùng quyết định chính trị. Ph.Ăngghen từng viết: “theo quan niệm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế”(3). Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính quyết định của kinh tế đối với chính trị, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”(4); “chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”(5).
Kinh tế suy cho cùng quyết định chính trị, nhưng đó không phải là một sự “quyết định duy nhất” (từ Ph.Ăngghen dùng). Nói cách khác, trong mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị không được tuyệt đối hóa vai trò quyết định của kinh tế, mà phải thấy chính trị có tính độc lập tương đối của nó, nó có quy luật vận động, phát triển “riêng”. Ph.Ăngghen từng phê phán những ai cố tình xuyên tạc, hiểu sai quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị “theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”(6). Câu đầy đủ của Ph.Ăngghen là: “theo quan niệm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Còn nếu có ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”. Như vậy, đâu phải cứ tồn tại nhiều thành phần kinh tế thì nhất thiết phải đa nguyên, đa đảng chính trị. Nếu ai đó cố tình hiểu vấn đề này một cách máy móc, xơ cứng như vậy thì họ đã biến lời khẳng định của các nhà kinh điển mácxít về nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực “thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa” (Ph.Ăngghen).
Thứ hai, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, do đó về mọi phương diện kinh tế, văn hóa, đạo đức... còn mang những dấu vết của xã hội cũ. V.I.Lênin từng viết: “danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”(7).
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này tuy có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng đều là các bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là công cụ, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN; khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường; các doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu (kể cả sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất), nhiều thành phần kinh tế (kể cả kinh tế có vốn đầu tư từ các nước tư bản chủ nghĩa), nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối, nhưng thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo là kinh tế nhà nước và quan hệ sản xuất (QHSX) giữ vị trí thống trị là QHSX XHCN. Chính vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò thống trị của QHSX XHCN là cơ sở kinh tế quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng, quyết định bản chất của Nhà nước, quyết định tính chất của tư tưởng chính trị, chứ không phải là các thành phần kinh tế hay các QHSX khác. Do đó, luận điệu cho rằng cứ phát triển kinh tế nhiều thành phần tất yếu phải thực hiện đa nguyên, đa đảng là không có cơ sở.
Hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhưng QHSX TBCN vẫn là QHSX thống trị, do đó tư tưởng chính trị thống trị trong xã hội tư bản chính là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản. Mặc dù các nhà tư tưởng tư sản vẫn nói rằng, xã hội TBCN là xã hội dân chủ, một xã hội tự do tư tưởng, tự do thành lập các đảng chính trị..., nhưng trên thực tế, ở các nước tư bản, về bản chất, các hình thức nhà nước trong xã hội tư bản vẫn là nhà nước tư sản. Nước Mỹ hiện nay có nhiều đảng chính trị (Đảng Dân chủ, Đảng Cộng hòa, Đảng Độc lập, Đảng Tự do, Đảng Xanh Hoa Kỳ, Đảng Hiến pháp, Đảng Cộng sản Hoa Kỳ...), nhưng chỉ có hai đảng (Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa) thay nhau cầm quyền và về bản chất, hai đảng này cũng đều là đảng của giai cấp tư sản. V.I.Lênin viết rằng: “Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”(8). Vì vậy, nói là đa nguyên, đa đảng, nhưng thực chất vẫn là nhất nguyên mà thôi.
Thứ ba, nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm hoạt động tự giác, là kết quả của quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
Mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen chưa trực tiếp bàn đến “kinh tế nhiều thành phần”. Tuy nhiên, quan niệm duy vật về lịch sử, quan niệm về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen là cơ sở lý luận, cơ sở khoa học cho phép nhận diện quan niệm về nền kinh tế nhiều thành phần của C.Mác và Ph.Ăngghen. Bàn về đặc điểm của thời kỳ quá độ - với tư cách là một giai đoạn, một thời kỳ chuyển giao giữa hình thái kinh tế - xã hội TBCN với hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác cho rằng: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”(9). Điều này có nghĩa là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, “dấu vết” kinh tế của xã hội TBCN, trong đó các thành phần kinh tế vẫn chưa mất đi, nó vẫn tồn tại, thậm chí tồn tại trong một thời gian tương đối dài.
Thực tế của nước Nga cho thấy, đến cuối năm 1920, sau khi nội chiến kết thúc, “chính sách cộng sản thời chiến” - một chính sách tạm thời, mang tính ứng phó trong một hoàn cảnh cụ thể hết sức ngặt nghèo của nước Nga Xôviết - đã hết vai trò lịch sử, nước Nga chuyển sang một thời kỳ mới. Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản bônsêvích Nga (họp từ ngày 8-3 đến ngày 16-3-1921) đã chủ trương thay “chính sách cộng sản thời chiến” bằng “chính sách kinh tế mới” (NEP) với nội dung cơ bản là bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa, thay vào đó là thuế lương thực; những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hóa thì nay cho tư nhân thuê hay mua lại để kinh doanh tự do; phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp; mở rộng trao đổi hàng hóa, khôi phục và phát triển các quan hệ hàng hóa - tiền tệ; sử dụng CNTB nhà nước và các thành phần kinh tế khác để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH; v.v..
Vận dụng tư tưởng về thời kỳ quá độ của C.Mác và Ph.Ăngghen, khái quát thực tiễn nước Nga trong những năm 1920 - 1921, V.I.Lênin cho rằng, những thành phần kinh tế lúc này ở Nga bao gồm: “1) kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; 2) sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì); 3) chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4) chủ nghĩa tư bản nhà nước; 5) chủ nghĩa xã hội”(10). Các thành phần kinh tế này không phải tồn tại độc lập, riêng biệt mà “xen kẽ với nhau ở trong nó” (V.I.Lênin). Nói cách khác, việc sử dụng các thành phần kinh tế mang tính chất quá độ, gián tiếp, theo hướng “không đập tan cái cơ cấu kinh tế và xã hội cũ, thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản; mà là chấn hưng thương nghiệp, công nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản, bằng cách cố gắng nắm vững cái đó một cách thận trọng và từng bước, hoặc bằng cách nhà nước điều tiết những cái đó, nhưng chỉ trong chừng mực làm cho chúng sẽ được phục hồi lại”(11) là cần thiết trong bối cảnh nước Nga lúc bấy giờ.
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH; do đó, về mặt kinh tế - như V.I.Lênin khẳng định - vẫn có “những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản”. Nghĩa là, trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn sử dụng nhiều thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là việc làm hoàn toàn tự giác, chứ không phải tự phát; hoàn toàn nằm trong đường lối, chủ trương, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta chủ động lãnh đạo, quản lý nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, chứ không phải để cho nền kinh tế ấy phát triển một cách tự phát theo con đường TBCN.
Ph.Ăngghen từng viết: trong xã hội “nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn”(12) và “tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc họ”(13). Điều này hoàn toàn khác với những biến đổi diễn ra trong tự nhiên. Bởi lẽ, “trong tự nhiên (chừng nào chúng ta không xét đến ảnh hưởng ngược trở lại của con người đối với tự nhiên) chỉ có những nhân tố vô ý thức và mù quáng tác động lẫn nhau, và chính trong sự tác động lẫn nhau ấy mà quy luật chung biểu hiện ra”(14). Chính “ý định tự giác”, hoạt động “có ý thức” của các chủ thể kinh tế, chủ thể chính trị là nhân tố bảo đảm tính chất của nền kinh tế thị trường của Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải kinh tế thị trường TBCN.
Thứ tư, thiếu quan điểm thực tiễn. Các thế lực thù địch, phản động; các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ đã tách lý luận khỏi thực tiễn; không coi thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức; không dựa vào thực tiễn để đánh giá sự đúng, sai của lý luận. Họ cho rằng, đã phát triển kinh tế nhiều thành phần tất yếu phải thực hiện đa nguyên, đa đảng mà không chú ý đến thực tế ở Việt Nam, đến lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân, dân tộc Việt Nam, nhất là thời cận đại. Các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị đã cố tình lờ đi một thực tế là, lịch sử cận đại Việt Nam chứng minh rằng, chưa có một lực lượng xã hội nào, một đảng chính trị nào có thể giúp nhân dân Việt Nam thoát ra khỏi mọi áp bức, bất công, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào Cần Vương mặc dù đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước, tô thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam, tạo thành phong trào vũ trang chống thực dân Pháp và triều đình phong kiến tay sai, nhưng cũng chỉ kéo dài hơn 10 năm (1885 - 1896). Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của các nhà yêu nước Việt Nam như Phan Bội Châu (1867 - 1940), Phan Châu Trinh (1872 - 1926) hay Phong trào quốc gia cải lương (1919 - 1924); các phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925 - 1926); v.v. cuối cùng cũng thất bại. Đúng như kết luận của Đảng ta tại Đại hội VII: “các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”(15).
Thực tế cho thấy, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới xứng đáng là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Chỉ 15 năm sau ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên giành chính quyền, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập, tự do.
Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó là sự kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
_________________
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.15.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.66-67.
(3), (6) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1997, tr.641, 641.
(4) V.I.Lênin: Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.349.
(5) V.I.Lênin: Toàn tập, t.45, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.147.
(7), (10) V.I.Lênin: Toàn tập, t.43, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.248, 248.
(8) V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.44.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.33.
(11) V.I.Lênin: Toàn tập, t.44, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.275.
(12), (13), (14) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.435, 438, 435.
(15) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.109.
PGS, TS TRẦN SỸ PHÁN
Viện Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh