Tóm
tắt: Nhận
thức về thể chế, quản trị nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân là những vấn đề lý luận không mới trong khoa học pháp
lý ở Việt Nam và ở nhiều quốc gia trong những thập kỷ vừa qua. Tuy vậy, vấn đề
phát triển bền vững đặt ra những yêu cầu mới cho quản trị nhà nước hiện đại,
trong đó lý luận về vai trò của thể chế sẽ được quan tâm, có ý nghĩa đặc biệt
về phương diện lý luận và thực tiễn. Phát triển bền vững tiếp cận ở các trụ cột
cơ bản như: Kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. Trong đó, thể chế là trụ
cột tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá trình phát triển. Bài viết
với mục đích nhấn mạnh thêm cơ sở lý luận, dân chứng về vài trò của thể chế
trong quản trị nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam.
Từ
khóa: Thể
chế, quản trị nhà nước, phát triển bền vững, Việt Nam.
1. Khái
niệm và yêu cầu của phát triển bền vững
1.1.
Khái niệm phát triển bền vững
Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “phát triển bền vững”, song có lẽ định
nghĩa được thừa nhận rộng rãi nhất và cũng được trích dẫn nhiều nhất là của Ủy
ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) (1987): Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn được các nhu cầu của
hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc
thỏa mãn các nhu cầu của họ. Phát triển bền vững bao hàm ba nội dung quan
trọng là phát triển bền vững về kinh tế, phát triển bền vững về xã hội và phát
triển bền vững về môi trường.
Sau khi định nghĩa này ra đời, Barbier và Markandya
(Barbier, E.B. và Markandya, A.(1990).
The
Conditions for Achieving Environmentally Sustainable Development. European
Economic Review, 34, pp. 659-669) đã tổng hợp các lý thuyết và chia các định nghĩa
thành hai nhóm: (1) Theo
nghĩa rộng, sự bền vững liên quan đến ba khía cạnh: kinh tế, môi trường tự nhiên và
xã hội; (2) Theo nghĩa hẹp, phát triển bền vững về môi trường,
nghĩa là khai thác một cách tối ưu tài nguyên thiên nhiên theo thời gian. Ở
đây, cần phải hiểu rằng tài nguyên thiên nhiên là một loại vốn và có hai vai
trò cơ bản đối với các hoạt động của con người như cung cấp nguyên vật liệu, hấp
thu chất thải và hỗ trợ sự sống.
Cũng trong phạm vi thảo luận và sử dụng định nghĩa của
WCED, tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển được tổ chức
năm 1992 ở Rio de Janeiro (Brazin), 179 Quốc gia tham gia đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về
môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình nghị sự
21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới
trong thế kỷ 21. Hội nghị khuyến nghị từng nước căn cứ vào điều kiện và đặc điểm
cụ thể để xây dựng Chương trình nghị sự 21 ở cấp quốc gia, cấp ngành và địa
phương. Mười năm sau, tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững
tổ chức năm 2002 ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi), 166 nước tham gia đã thông
qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững.
Hội nghị đã khẳng định lại các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết
thực hiện đầy đủ Agenda 21 về phát triển bền vững (Chính phủ, 2006). Agenda 21
nhìn chung dựa trên bốn trụ cột cơ bản: kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế,
và nỗ lực kết hợp chúng một cách hài hòa nhằm hướng tới sự phát triển bền vững.
Dựa trên cách tiếp cận các trụ
cột, theo đó, tính bền vững trong phát
triển không đặt trọng tâm vào bất kỳ một trụ cột nào mà đòi hỏi tất cả trụ cột
phải bền vững đồng thời. Chỉ một trụ cột bền vững là không đủ bởi các lý do
sau: i) Mỗi trụ cột có tầm quan trọng một cách tương đối độc lập, nghĩa là ảnh
hưởng đến các khía cạnh khác nhau của đời sống con người; ii) Đảm bảo bền vững
cho mỗi trụ cột là đòi hỏi bức thiết, do đó không nên đặt ra vấn đề ưu tiên
khía cạnh nào trước, khía cạnh nào sau; iii) Các trụ cột có liên
quan mật thiết với nhau, vì vậy những nỗ lực tập trung chỉ vào một vấn đề rất
có thể sẽ làm các vấn đề khác trở nên tồi hơn. Cách tốt nhất để xử lý là trước
khi ra các quyết định phải cân nhắc toàn diện các hậu quả. Chính vì vậy, việc
huy động và sử dụng các nguồn lực tự nhiên phải được xem xét trong mối quan hệ
với các vấn đề kinh tế, xã hội hay thể chế; tương tự như vậy đối với các nguồn
lực kinh tế và xã hội.
Từ những phân tích trên có thể kết
luận: Phát triển bền vững là sự phát triển
lâu dài phù hợp với yêu cầu của thế hệ ngày hôm nay mà không gây ra những khả
năng nguy hại đến các thế hệ mai sau trong việc thoả mãn nhu cầu riêng và trong
việc lựa chọn ngưỡng sống của họ, là sự biến đổi sâu sắc, trong đó việc sự dụng
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, việc lựa chọn cơ cấu đầu tư, lựa chọn các loại
hình tiến bộ kỹ thuật, cơ cấu hành chính và các giá trị khác của xã hội để áp dụng
phù hợp với các nhu cầu hiện tại và tương lai dựa trên các trụ cột chủ yếu như:
Kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế.
1.2.
Yêu cầu của phát triển bền vững
Với cách tiếp cận các trụ
cột chính của phát triển, chúng ta có thể khái quát các yêu cầu cơ bản đối với
phát triển bền vững sau đây:
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự
phát triển nhanh, an toàn, chất lượng, ổn định. Phát triển bền vững về kinh
tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với
những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn
tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng.
Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người,
không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho
phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.
Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản: Giảm dần mức
tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết kiệm và
thay đổi lối sống; thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học
và môi trường; bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ
y tế và giáo dục; xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; công nghệ sạch và sinh thái
hóa công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng lượng).
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá
bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục,
y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa ngày càng tốt hơn. Ngoài ra, bền vững
về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai
tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao
và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn. Công
bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu
chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình
độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh. Phát
triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều
kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người
cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được.
Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường phải bảo đảm
điều kiện sống về tự nhiên an toàn, tốt cho con người, kiểm soát việc khái thác
tài nguyên. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp,
du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,... đều tác động đến môi
trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về
môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của
con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất,
không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần coi trọng
và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc
tế. Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải
thiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường đòi hỏi
chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức
độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường
tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.
Thứ
tư, phát triển bền vững về thể chế bảo đảm thúc đẩy mọi lĩnh vực trong quá
trình vận động và phát triển. Thể chế mà trực tiếp là
hệ thống các thiết chế chính trị, chính quyền nhà nước và hệ thống nguyên tắc,
quy phạm pháp luật vận hành cần phải thỏa mãn các tiêu chuẩn tiến bộ, phù hợp với
bản chất và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ, tiến bộ, phúc đáp được
yêu cầu về sự phát triển bền vững. Pháp luật và hệ thống công cụ điều chỉnh tồn
tại trong một quốc gia không chỉ là hệ quy chiếu, phản ánh khách quan, trung thực
đời sống xã hội mà thể chế cần phải tạo dựng được khung khổ cho sự phát triển,
nâng tầm thực tiễn, tạo ra những cuôc cách mạng cho sự phát triển. Chính sách,
pháp luật cần có tầm chiến lược thì xã hội càng có nhiều điều kiện cho sự phát
triển bền vững và lâu dài.
2. Mối quan hệ giữa thể chế và quản trị nhà
nước trước yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam
Trước hết, nhà nước
cần quán triệt sâu sắc và đầy đủ các quan điểm của Đảng về phát triển bền vững ở
Việt Nam để khi hoạch định chính sách pháp luật và hiện thực hóa chính sách
pháp luật thành hệ thống các quy phạm pháp luật cụ thể thì sẽ không xa rời các nguyên
tắc, mục tiêu chính trị mà Đảng đã đã đề ra và đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của
thực tiễn đất nước đang đặt ra.
Chính quyền nhà nước cần rà soát lại toàn
bộ hệ thống các quy phạm pháp luật, xem các quy phạm pháp luật đó còn đáp ứng
được với đòi hỏi của yêu cầu của phát triển bền vững nữa hay không; điểm nào,
chỗ nào thiếu, thừa, lạc hậu trong hệ các quy phạm pháp luật để có biện pháp kịp
thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Chính quyền nhà nước cần tổ chức nghiên cứu
và đầu tư cho công tác nghiên cứu kinh nghiệm và những bài học của nước ngoài
trong việc hoạch định và thiết kế hệ thống chính sách, chính sách pháp luật và
xây dựng pháp luật bảo đảm phát triển bền vững, trên cơ sở đó xác định những
kinh nghiệm hay, bài học có giá trị lý luận và thực tiễn cho Việt Nam.
Quan
trọng nhất hiện nay là nhà nước phải xây dựng cho được một hệ thống pháp luật
có chất lượng, hoàn thiện và có khả năng định hướng cho bốn loại hoạt động cơ bản
trong lĩnh vực pháp luật (gồm xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật,
thực hiện pháp luật, đảm bảo những điều kiện cần thiết phải có để tiến hành ba
loại hoạt động đó như thế nào), nhằm bảo đảm phát triển bền vững ở nước ta
trong thời gian tới.
Trong
điều kiện cụ thể hiện nay, chính quyền cần phải xây dựng hệ thống thể chế bảo đảm
phát triển bền vững một cách hoàn chỉnh trước khi sáng tạo ra một hệ thống các
quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và quốc phòng – an ninh nhằm bảo đảm phát
triển bền vững ở nước ta hiện nay. Điều này cắt nghĩa từ nguyên lý triết học là
lý thuyết luôn luôn là kim chỉ nam hành động của thực tiễn, đưa đường, dẫn lối
thực tiễn, còn thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá tính đúng đắn hay không đúng đắn
của lý thuyết.
Như vậy, chính quyền nhà nước có vai trò
trực tiếp, quyết định đến sự hình thành, giá trị điều chỉnh, hiệu lực, sự tác động
và phúc đáp của pháp luật trước yêu cầu về sự phát triển bền vững trong đời sống
xã hội ở mỗi quốc gia.
3. Các khía cạnh về vai trò của thể chế trong quản
trị nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam
Thể
chế của một quốc gia, vùng lãnh thổ có những vai trò đặc biệt quan trọng đối
với phát triển bền vững. Có thể nói thể chế vừa là nội dung, trụ cột vừa là
điều kiện, động lực của phát triển bền vững ở một quốc gia. Khái quát một số
vai trò của thể chế sau đây:
Thứ nhất, thể
chế đóng vai trò định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho việc tổ chức, vận
hành xã hội
Xuyên
suốt lịch sử phát triển nhân loại, có thể thấy mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi vùng
lãnh thổ có những cách thức hình thành, phát triển khác nhau, nhưng để duy trì
sự tồn tại và phát triển đó, tất cả mọi chính thể này đều xác lập và sử dụng
“công cụ thể chế” để tổ chức, vận hành xã hội. Bởi xét đến cùng, không chỉ một
chính thể quốc gia, mà ngay bản thân một tổ chức, một nhóm xã hội… để hình
thành, trước hết cũng cần có một khung khổ, điều lệ để hình thành, rồi cũng cần
có luật lệ, quy tắc để tổ chức và vận hành - nghĩa là phải có thể chế, điều
đó chứng tỏ rằng vai trò hàng đầu của thể chế là định hướng mục tiêu, hướng dẫn
hành vi và tiếp đến là tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức vận hành xã hội,
vận hành hoạt động của tổ chức. Ngoài ra, thể chế còn có tác dụng xác lập địa
vị của các chủ thể, trên cơ sở đó hướng dẫn hành vi ứng xử trong mối quan hệ
qua lại của các chủ thể, giúp các chủ thể nhận biết được chức trách của mình để
có những cách thức ứng xử trong quan hệ và thực hiện nhiệm vụ một cách phù hợp
(Phạm Thị Túy 2014: 43).
Thứ hai, thể chế kiến tạo nền tảng kinh tế,
chính trị, xã hội của quốc gia, phúc đáp các yêu cầu của sự phát triển
Thể
chế xác lập và định hình khung khổ chung cho mọi hoạt động kinh tế, chính trị,
xã hội, theo đó những nền tảng xã hội căn bản này vận hành hiệu quả hay không
phụ thuộc quyết định bởi chất lượng và hiệu lực thể chế, hay nói cách khác đó
là sự phù hợp của thể chế. Thể chế được coi là phù hợp cho một quốc gia bao gồm
một hệ thống pháp luật đáng tin cậy, ghi nhận và bảo hộ các quyền và lợi ích
chính đáng của các chủ thể xã hội, một cơ chế giữ gìn công lý đáng tin cậy giúp
giải quyết các tranh chấp cũng như một chính quyền minh bạch, đáng tin cậy, mọi
hành vi can thiệp, điều tiết của nhà nước tổ chức và vận hành xã hội, có tính
tiên liệu và khả thi (Phạm Thị Túy 2014: 43).
Bởi
vậy, một quốc gia có nền tảng thể chế tốt, có nghĩa là quốc gia sẽ có một môi
trường chính trị - xã hội ổn định để hoạt động của mọi thành viên xã hội được
tiến hành một cách thuận lợi, thêm nữa, khi một quốc gia, vùng lãnh thổ xác lập
được thể chế hữu hiệu, tất yếu quốc gia, vùng lãnh thổ đó có được những công cụ
hữu ích để chủ thể nhà nước có thể điều tiết một cách có hiệu quả vận hành xã
hội, đồng thời căn cứ vào nền tảng thể chế đã có mà mỗi chủ thể trong xã hội
đều có thể hoàn thành một cách hợp lý nhất những quyền và nghĩa vụ của mình đối
với tổ chức, với xã hội.
Thứ ba, thể chế đóng vai trò chủ thể quản lý
xã hội và xác lập các công cụ quản lý xã hội hữu hiệu
Thể
chế là sản phẩm “tinh thần” của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, nó được xây
dựng nhằm phục vụ các chính thể này thực hiện sứ mệnh tổ chức, quản lý điều
hành sự vận hành xã hội. Mặc dù các thể chế được tạo ra bởi chính các chủ thể
nhà nước quốc gia, lãnh thổ, nhưng với bản chất là cái tạo thành khung khổ trật
tự cho các quan hệ của các chủ thể trong một xã hội, định vị cơ chế thực thi và
giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác; là ý chí chung của
cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và
các chuẩn mực, giá trị chung được mọi chủ thể xã hội chia sẻ, điều đó có nghĩa
là thể chế thực sự là chủ thể quản lý xã hội, xác lập các công cụ quản lý xã
hội. Vai trò này không chỉ thể hiện ở trọng trách của thể chế với các chủ thể
xã hội nói chung, mà nó còn được thực thi ngay với chính chủ thể nhà nước - chủ
thể quyền lực cao nhất và cả những chủ thể khác trong bộ máy nhà nước. Bởi bản
thân các chủ thể từ nhà nước đến các chủ thể khác đều phải chịu sự điều chỉnh
và phải tuân thủ sự điều chỉnh của thể chế (Phạm Thị Túy 2014: 44).
Thứ tư, thể chế đóng vai trò quan trọng
trong việc duy trì một chính quyền tốt, có vai trò kiến tạo, liêm chính, hạn
chế tham nhũng và có khả năng kiểm soát
Thể
chế được hiện hữu bởi hệ thống luật pháp, chính sách, các quy tắc, quy
phạm…theo đó mọi hoạt động, vận hành xã hội được thực hiện và điều chỉnh bởi
những nhân tố này. Với tư cách là một chủ thể xã hội, một hành vi xã hội, chủ
thể - chính quyền và hành vi tham nhũng cũng được duy trì sự vận hành, hoạt
động bởi khung khổ chung do các thực thể của thể chế tạo thành. Nếu thể chế
được thiết lập một cách hiệu quả và việc tuân thủ nó được tôn trọng, tất yếu sẽ
có một chính quyền tốt được duy trì và hành vi tham nhũng được hạn chế. Tuy
nhiên, không phải dễ dàng có được một thể chế hiệu quả, mà vấn đề là mọi thể
chế đều có thể có những khiếm khuyết hoặc việc tuân thủ thể chế bị giới bạn bởi
tinh thần thượng tôn pháp luật không được đề cao. Mặc dù vậy, vẫn không thể phủ
nhận được vai trò của thể chế trong việc góp phần đắc lực cho duy trì chính
quyền vận hành trên cơ sở tuân thủ khung khổ thể chế, bởi thực tế là một thể
chế được xác lập khó hoàn thiện mà thông thường sẽ có những hạn chế nhất định,
song những hạn chế đó là không căn bản, nên nếu việc tuân thủ thể chế được thực
hiện tốt ắt sẽ là tiền đề vững chắc duy trì chính quyền tốt và kiểm soát tham
nhũng (Phạm Thị Túy 2014: 44).
Thứ năm, thể chế góp phần tạo
ra những tiền đề điều kiện hạn chế những khuyết tật của tiến trình phát triển
xã hội
Mọi
tiến trình phát triển xã hội dù ít hay nhiều đều chứa đựng những khuyết tật như
những bất ổn kinh tế, chính trị hay xã hội, thậm chí đó là những lệch lạc trong
thực hiện mục tiêu xã hội; đó là tệ nạn xã hội; đó là tiêu cực kinh tế; đó là
những tổn hại môi trường bởi những “tham vọng lợi nhuận”…Những hạn chế, khuyết
tật trong tiến trình phát triển xã hội được nêu trên hoàn toàn có thể khắc phục
nếu có hệ thống thể chế căn bản và khả thi. Có hệ thống thể chế căn bản và khả
thi, có nghĩa là có một hệ thống pháp luật, chính sách tương đồng, tin cậy có
tác động lan tỏa và có khả năng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể xã hội…với hệ thống thể chế ấy, tất yếu sẽ cung cấp cho chủ thể nhà nước
những tiền đề, điều kiện cần thiết để hạn chế những khuyết tật trong tiến trình
phát triển xã hội. Vì vậy, muốn thúc đẩy phát triển, muốn hạn chế hữu hiệu
những khuyết tật trong tiến trình phát triển xã hội cần bắt đầu từ xây
dựng thể chế phù hợp, trên cơ sở phối kết hợp một cách
hài hòa, hợp lý giữa trình độ phát triển của quốc gia với việc tiếp thu kinh
nghiệm quản trị nhà nước tiên tiến, trong đó cần hướng đến gia tăng sự tham gia
của người dân, tăng trách nhiệm giải trình, tăng tính tuân thủ pháp luật, tăng
hiệu quả ban hành các chính sách và thực thi các chính sách của chính quyền
(Phạm Thị Túy 2014: 45).
Thứ sáu, thể chế đảm bảo các chủ thể xã hội
thực hiện được các quyền và nghĩa vụ thông qua việc tuân thủ pháp luật
Với
tư cách là một hệ thống các công cụ quản lý và điều tiết vận hành xã hội, thể
chế sẽ tạo cơ chế để các chủ thể xã hội vừa thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Thực tế phát triển các thể chế ở nhiều quốc gia cho thấy, một thể chế
thiếu chú trọng đến việc khuyến khích các chủ thể phát huy các quyền của mình
để đóng góp cho phát triển xã hội và đảm bảo các nhu cầu chính đáng của bản
thân, trong khi lại chú trọng đến việc đòi hỏi họ thực hiện quá nhiều nghĩa vụ,
thì chắc sẽ đi đến triệt tiêu động lực phát triển. Một thể chế thiếu tôn trọng
quyền làm chủ của các chủ thể xã hội, không tạo thuận lợi cho các chủ thể thực
hiện các hoạt động mưu sinh, mà chỉ chú trọng tạo thuận lợi cho chính quyền
hoặc cho những nhóm lợi ích cá biệt, đẩy khó khăn cho đông đảo các chủ thể xã
hội khác, thì chắc chắn sẽ không khơi dậy được các sáng kiến, tài năng của cộng
đồng xã hội cho phát triển đất nước (Phạm Thị Túy 2014: 45).
4. Một số giải pháp xây dựng
hoàn thiện thể chế để quản trị nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở
Việt Nam
Thứ nhất: Xây dựng và hoàn thiện thể chế về tổ chức
và hoạt động của Bộ máy nhà nước phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đổi mới và không ngừng hoàn
thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm hoạt động của Đảng phù hợp với
Hiến pháp và pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
và xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của nhà nước, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân (Đào
Trí Úc 2017: 16).
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; cụ thể hoá đầy đủ nguyên tắc hiến định “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; nâng cao hiệu lực, hiệu
quả thi hành pháp luật. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
Đảng và nhà nước ta từ nay đến năm 2030.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động lập
pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống
pháp luật; trong đó, các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoàn thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành
và công bố văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả Trung ương và địa
phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật, giảm dần việc Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành
luật; hạn chế dần thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính
quyền địa phương. Xác lập cơ chế bảo đảm luật được thi hành ngay khi có hiệu
lực (Đào Trí Úc 2017: 17).
Thể chế hoá nguyên tắc dân chủ trong hoạt động
của cơ quan dân cử, bảo đảm để Nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động xây
dựng pháp luật, giám sát bằng nhiều hình thức việc thi hành pháp luật của các
cơ quan, công chức nhà nước. Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc
hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp.
Xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước. Từ nay
đến năm 2030, xoá bỏ vai trò chủ
quản của cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp để các cơ quan này tập trung làm
tốt chức năng quản lý nhà nước theo luật; đẩy mạnh xã hội hoá một
số dịch vụ công. Đơn giản hoá và công khai, minh bạch các thủ tục hành chính,
đặc biệt là các thủ tục liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp.
Đến năm 2030, pháp
luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan hành pháp được hoàn thiện
theo hướng Chính phủ tập trung vào chức năng quản lý, điều hành vĩ mô và thực
hiện đúng vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Hình thành cơ chế
pháp lý để Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục tư
pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình quản lý,
tổ chức thi hành pháp luật. Xây dựng các luật về tổ chức và
hoạt động của các bộ, ngành, UBND các cấp. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của
Chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ
quan, chức danh tư pháp.
Trọng tâm là hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND, bảo đảm toà án xét xử độc
lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh. Hoàn thiện cơ chế quản lý TAND
địa phương theo hướng bảo đảm tính độc lập giữa các cấp toà án trong hoạt động
xét xử.
Hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo
hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, bảo đảm tính độc lập trong hoạt
động tư pháp. Xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định, cảnh
sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa
dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hoá mạnh mẽ
các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ
chức xã hội nghề nghiệp.
Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp
theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận
tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp;
bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng
tại toà án làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá
để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà
hành chính đối với tất cả các loại khiếu kiện hành chính.
Thứ hai: Xây dựng và hoàn thiện thể chế về bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân
Củng cố cơ sở pháp lý
về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, ban hành kịp thời,
đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính
trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Hoàn thiện chế độ bảo hộ của nhà nước đối với các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước,
nhất là toà
án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân; khắc phục việc xử lý oan, sai; bảo đảm
tính khả thi các nội dung trong Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017. Bảo
đảm sự điều chỉnh của luật về lập hội, biểu
tình nhằm xác định rõ quyền, trách
nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm của nhà
nước của công dân trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng.
Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của
các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các
hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ
trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của nhà nước; bảo đảm hiệu quả
điều chỉnh Luật Trưng cầu ý dân năm 2015.
Thứ ba: Xây dựng và hoàn thiện thể chế bảo
đảm phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam cần bảo đảm các yêu cầu về phát triển bền vững trong mối quan hệ đan xen
các yêu cầu phát triển về môi trường, văn hóa xã hội, trong đó văn hóa là sức
mạnh nội sinh, môi trường là yếu tố đặc biệt quan trọng.
Xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu nhà nước và
các chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu...
Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp
luật không cấm. Tạo cơ sở pháp luật để công dân tích cực huy động mọi tiềm
năng, nguồn lực và phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc
sống của bản thân, gia đình và góp phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng,
phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác. Xây dựng một khung
pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc
quyền và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống
nhất pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn
thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao
kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng,
phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Đổi mới cơ bản pháp luật về
phá sản của các doanh nghiệp.
Xây dựng pháp luật
cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường. Tạo cơ sở pháp lý cho việc hình
thành và phát triển thị trường
bất động sản, trong đó đặc biết quan tâm đến sự ôn định
trong phát triển thi trường bất động sản về đất đai. Pháp luật cần có quy định
từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và
người nước ngoài đầu tư ở Việt Nam trong yêu cầu về bảo đảm nghiêm ngặt về an
ninh quốc gia. Hoàn
thiện môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển lành mạnh thị trường lao
động theo hướng đa dạng hoá các hình thức tìm việc làm, giới thiệu việc
làm và tuyển chọn lao động, khuyến khích mở rộng thị trường lao động có hàm
lượng chất xám cao. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và
người sử dụng lao động. Hoàn thiện pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, hình thành
và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng mở rộng
phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của
WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng các thiết chế và
chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng, tạo môi
trường lành mạnh, bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, khuyến khích cạnh tranh
trong hoạt động tín dụng trên nguyên tắc an toàn hệ thống.
Thứ tư: Xây dựng và hoàn thiện thể chế về các vấn đề
xã hội bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững
Thể chế hoá chủ
trương xã hội hoá trong các lĩnh vực văn hoá - xã hội (giáo
dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, y tế, văn hoá, nghệ
thuật, thể thao...); đồng thời bảo đảm sự quản lý, điều tiết và đầu tư thích đáng của nhà nước phù hợp với mục
tiêu trong từng lĩnh vực; có chủ trương, chính sách hỗ trợ cần
thiết, phù hợp tạo động lực phát triển bền vững đối với người nghèo và các đối
tượng khó khăn. Thể chế hoá đầy đủ hơn
quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, thực hiện “chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá giáo dục”, xây dựng xã hội học tập, nâng
cao chất lượng giáo dục, đầu tư thỏa đang cả về vất chất và tinh thần đối với
lĩnh vực giáo dục – đào tạo trong bối cảnh mới. Xác định rõ sự thống nhất quản
lý nhà nước về giáo dục, đồng thời tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của nhà trường, của cơ sở giáo dục; tạo sự bình đẳng, khuyến khích cạnh tranh
lành mạnh giữa các loại hình đào tạo công lập và ngoài công lập.
Hoàn thiện pháp luật về khoa học và
công nghệ theo hướng khuyến khích sự phát triển các ngành khoa học
mới, công nghệ cao; khuyến khích sáng tạo và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa
học, công nghệ, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số.
Xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về dân tộc, tôn giáo theo hướng tăng cường
đoàn kết đồng bào các dân tộc, tôn giáo trên cơ sở đại đoàn kết toàn dân tộc.
Gắn chính sách dân tộc, miền núi với phát triển bền vững về an ninh quốc gia
vùng biên trong những hoàn cảnh đặc biệt thư dịch bệnh, thiên tại... Thể chế
hoá toàn diện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, cùng phát triển của
cộng đồng các dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt
đẹp của mỗi dân tộc; bảo đảm quyền của công dân về tự do tín ngưỡng, phát huy
những mặt tốt đẹp về văn hoá, đạo đức của tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn
đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, làm tổn hại an ninh quốc gia.
Xây
dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo quan điểm văn hoá là
nền tảng tinh thần và là động lực của sự phát triển đất nước, hướng mọi hoạt
động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Tạo lập
đồng bộ cơ sở pháp lý, bảo đảm tự do, dân chủ cho hoạt động sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị văn hoá, văn học nghệ thuật; huy động sự tham gia nhiều hơn,
hiệu quả hơn của xã hội vào việc bảo vệ, phát huy di sản văn hoá dân tộc; ngăn
chặn việc lưu hành các sản phẩm văn hoá thông tin độc hại.
Xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân theo
hướng bảo đảm để công dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có
chất lượng; tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển mạng lưới y tế cơ sở, ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ cao vào hoạt động y tế; bình đẳng
giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động nghề
nghiệp của những người hành nghề y, dược, về dân số, gia đình, bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em, về người khuyết tật. Thể
chế hoá các chính sách về công bằng xã hội để bảo đảm mọi công dân
được tiếp cận và hưởng thụ các loại dịch vụ công, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã
hội, cứu trợ xã hội, xoá đói, giảm nghèo; hoàn thiện pháp luật về ưu đãi xã hội
đối với các đối tượng chính sách, về bảo vệ người tiêu dùng; hình thành Quỹ bảo
hiểm thất nghiệp để bảo đảm an sinh xã hội.
5. Kết luận
Trong
một công trình khoa học nghiên cứu qua hai thế kỷ với nhiều nhà khoa học tham
gia, khảo nghiệm ở một số quốc gia triển thế giới với mức độ phát triển khác
nhau để tìm câu trả lời cho vấn đề: “Nguyên
nhân quan trọng nhất cho sự phát triển hay không phát triển ở một quốc gia là
gì” thì kết quả của công trình nghiên cứu đó đã chỉ ra rằng có ba nguyên
nhân cốt lõi, quyết định đến sự phát triển của một quốc gia, đó là: Thể chế,
văn hóa (trong đó nhấn mạnh đến tôn giáo, tín ngưỡng) và vị trí địa lý (trong
đó nhấn mạnh đến tài nguyên thiên nhiên). Công trình cũng khẳng định rằng: Thể
chế chính là nguyên nhân số một, có tính quyết định. Càng nhận thức về kết quả
nghiên cứu này khi đặt trong điều kiện phát triển cụ thể của một quốc gia,
chúng ta càng thấy rõ được giá trị lý luận và thực tiễn của nó. Chắc chắn một
điều là chúng ta đã nhận thấy rất rõ vị trí, vai trò của thể chế trong nội dung
của sự phát triển bền vững của một quốc gia.
Trong mối quan hệ với quản trị nhà
nhà nước trước yêu cầu phát triển bền vững thì thể chế đã khẳng định rất rõ vài
trò quan trọng, có tính quyết định của nó. Nhà nước hiện đại đang chuyển dịch từ
mô hình của quản lý, cai trị sang mô hình của nhà nước quản trị, kiến tạo, phúc
lợi để phúc đáp tốt hơn yêu cầu về sự phát triển. Vì vậy, cần phải nhận diện rõ
hơn về phát triển bền vững, vài trò của thể chế, mối quan hệ giữa thể chế với
quản trị nhà nước, các giải pháp chủ yếu để xây dựng và hoàn thiện thể chế đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
TS. Nguyễn Văn Đại và Nguyễn Thị Mai Anh